HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHILIPPINES
Giáo dục ở Philippines được cung cấp bởi các trường công lập và tư thục, cao đẳng, đại học, và các tổ chức kỹ thuật và dạy nghề. Tài trợ cho giáo dục công cộng đến từ Chính phủ Philippines.
Ở cấp độ giáo dục cơ bản, Bộ Giáo dục (DepEd) đặt ra các tiêu chuẩn giáo dục tổng thể và bắt buộc các bài kiểm tra tiêu chuẩn cho hệ thống giáo dục cơ bản từ lớp 1 đến lớp 12. Mặc dù các trường tư thục thường tự do xác định chương trình giảng dạy của mình nhưng phải tuân thủ theo tiêu chuẩn do Bộ Giáo dục Philippines quy định.
Mặt khác, ở cấp giáo dục đại học, Ủy ban Giáo dục Đại học (CHED) giám sát và điều chỉnh các trường cao đẳng và đại học. Trong khi đó, Cơ quan Phát triển Kỹ năng và Giáo dục Kỹ thuật (TESDA) chịu trách nhiệm giám sát các tổ chức kỹ thuật và dạy nghề cũng như điều chỉnh và công nhận các chương trình giáo dục kỹ thuật và dạy nghề từ các tổ chức giáo dục.
Trong năm học 2017 – 2018, khoảng 83% học sinh từ lớp 1 đến lớp 12 theo học tại các trường công lập và khoảng 17% theo học tại các trường tư hoặc học tại nhà.
Dưới đây là các cấp học được phân chia theo hệ thống giáo dục của Philippines:
1) Giáo dục bậc mầm non (Kingder Garten)
Dành cho trẻ từ độ tuổi từ 3-5 tuổi, đây là cấp học không bắt buộc, trẻ có thể theo học tại các trường tư thục hoặc công lập theo quy định của Bộ giáo dục.
2) Giáo dục bậc tiểu học (Elementary)
Trường tiểu học bao gồm sáu năm đầu tiên của giáo dục bắt buộc (lớp 1-6) được chia thành 3 năm sơ cấp và 3 năm trung cấp. Ngoài ra, một số trường cung cấp lớp 7 tùy chọn cho học sinh. Học sinh bước vào tiểu học độ tuổi từ 6 -12 tuổi. Các môn chính bao gồm toán, khoa học, tiếng Anh, tiếng Philipines và khoa học xã hội. Các môn học tùy chọn bao gồm âm nhạc, nghệ thuật, thể dục thể thao và sức khoẻ. Các học sinh trường tư thục có thể lựa chọn các môn học từ chương trình học rộng rãi hơn bao gồm giáo huấn về tôn giáo theo tôn giáo mà họ chọn.
3) Giáo dục bậc trung học (Secondary)
Học sinh sẽ theo học bậc trung học từ 12-16 tuổi. Giáo dục trung học bao gồm 4 cấp độ, chương trình giảng dạy được quy định cho cả hai trường tư thục và công lập. Các môn học chính như sau:
Năm 1: Tiếng Philipines 1 , Đại số 1, Khoa học Hợp nhất, Tiếng Anh 1, Lịch sử Phillipines.
Năm 2: Tiếng Philipines 2, Đại Số 2, Sinh Học, Tiếng Anh 2, Lịch Sử Á Châu.
Năm 3: Tiếng Philipines 3, Hình học, Hoá học, Lịch sử Thế giới, Địa lý.
Năm 4: Tiếng Philipines 4, Giải tích, Lượng học, Vật lý, Văn học, Kinh tế.
Các môn học không bắt buộc bao gồm: Y tế, Âm nhạc, Nghệ thuật, Thể dục, Kinh tế gia đình và Công nghệ. Các trường được lựa chọn trình bày thêm các môn học. Tổng số học sinh trung học vượt quá 5,5 triệu.
4) Giáo dục nghề
Sau khi tốt nghiệp trung học, học sinh có thể theo học tại các trường dạy nghề. Các chương trình dạy nghề được cung cấp có thời hạn khác nhau từ vài tuần đến 2 năm. Sau khi hoàn thành, sinh viên sẽ được nhận bằng hoặc chứng chỉ hành nghề.
Các trường cao đẳng nghề thường không đòi hỏi kỳ thi tuyển sinh, chỉ có hồ sơ giáo dục trung học và lệ phí nhập học.
5) Giáo dục sau trung học
Giáo dục sau trung học bao gồm cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, được quản lý bởi Ủy ban Giáo dục Đại học (CHED) được thành lập vào ngày 18 tháng 5 năm 1994 thông qua việc thông qua Đạo luật số 7722 của Cộng hòa Philippines hoặc Đạo luật Giáo dục Đại học năm 1994.
– Cao đẳng:
+ Chương trình cao đẳng Philippines kéo dài trong 2-3 năm, sau khi ra trường, sinh viên sẽ được nhận bằng diploma, sinh viên có thể đi làm hoặc tiến hành học lên bậc học cao hơn là đại học.
– Đại học:
+ Chương trình cử nhân có thời gian học tối thiểu là bốn năm. Trong hai năm học đầu tiên, học sinh được yêu cầu học các khóa học tổng quát, với các khóa học bắt buộc đối với ngành học chính được thực hiện trong hai năm cuối của chương trình. Các ngành học đặc biệt như liệu pháp lao động và vật lý trị liệu, kỹ thuật, kiến trúc thường là 5 năm. Sinh viên sau khi tôt nghiệp sẽ nhận được bằng bachelor.
– Thạc sĩ:
+ Bằng thạc sĩ thường đòi hỏi phải có một hoặc hai năm nghiên cứu toàn thời gian và phài hoàn thành một luận văn thạc sĩ. Yêu cầu đầu vào cho hầu hết các chương trình thạc sĩ là bằng cử nhân (bachelor) với điểm trung bình bằng hoặc tốt hơn 2.0.
– Tiến sĩ:
+ Các chương trình tiến sĩ thường bao gồm một số lượng đáng kể các môn học, luận án có thể chiếm 1/4 hay 1/5 trong tổng số tín chỉ. Chương trình Ph.D thường đòi hỏi hai hoặc ba năm toàn thòi gian. Các chương trình đòi hỏi các môn học chính yếu mà không cần nghiên cứu ban đầu, và đôi khi không có một luận văn chính, bằng cấp chuyên nghiệp được xác định cụ thể như Doctor of Education (Ed.D.), Public Health (D.P.H.) và những ngành khác. Để được theo học tiến sĩ, sinh viên buộc phải có bằng thạc sĩ, với một mức trung bình tối thiểu 2.0.